Bệnh máu khó đông gây nhiều biến chứng nếu không được điều trị kịp thời. Bệnh thường xuất hiện ở nam giới, dù vậy thì vẫn khá ít người hiểu rõ về căn bệnh này. Thông tin trong chuyên mục bài viết dưới đây sẽ giúp bạn tìm hiểu về bệnh máu khó đông là gì, bệnh có nguy hiểm không? Các bạn cùng theo dõi nhé.
Bệnh máu khó đông là gì?
Bệnh máu khó đông còn được biết đến với tên gọi khác là bệnh ưa chảy máu (hemophilia) . Đây là một căn bệnh hiếm gặp khiến cho máu của bệnh nhân không đông lại được như bình thường. Bệnh máu khó đông hiện nay được chia thành 3 loại:
- Bệnh Hemophilia A
- Bệnh Hemophilia B
- Bệnh Hemophilia C
Yếu tố đông hemophilia A và yếu tố đông máu Hemophilia B được xem là 2 loại protein quan trọng trong thành phần giúp đông máu. Do vậy mà khi bạn gặp phải những rối loạn đông máu thì có thể do một trong 2 yếu tố này bị giảm xuống rất thấp. Người bệnh có những dấu hiệu bị chảy máu lâu hơn bình thường. Tình trạng này có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể. Tuy nhiên nguy hiểm hơn cả là khi người bệnh bị chảy máu ở các khớp và cơ, tình trạng bị tái phát đi tái phát lại nhiều lần là nguyên nhân dẫn đến biến dạng khớp và teo cơ. Nhất là với những bệnh nhân bị chảy máu trong nội tạng hay não là nguy cơ gây tử vong hàng đầu ở người bệnh.
>>Xem thêm: Khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi có cần thiết không?
2. Triệu chứng của bệnh máu khó đông
Dấu hiệu bệnh máu khó đông ở mỗi người khác nhau do tình trạng nặng nhẹ ở mỗi người cũng khác. Cụ thể chúng ta cùng tìm hiểu bệnh máu khó đông có triệu chứng như thế nào?
- Với người bệnh nhẹ:
+ Người bệnh gặp tình trạng khó đông máu khi phẫu thuật hay sau chấn thương.
- Với người bệnh nặng:
+ Người bệnh gặp phải tình trạng chảy máu tự phát
+ Thỉnh thoảng bị chảy máu cam mà không rõ nguyên nhân
+ Đau, sưng khớp xuất hiện máu trong nước tiểu hoặc phân
+ Một số trường hợp bị thương nhẹ hay vết cắt cũng làm máu chảy nhiều, chảy máu sau thủ thuật nha khoa hoặc sau phẫu thuật
+ Máu chảy bất thường khi tiêm vắc xin
+ Trên cơ thể xuất hiện nhiều vết bầm tím không rõ nguyên nhân.
+ Trong một số trường hợp, người bệnh cũng sẽ xuất hiện các vết sưng trên đầu gây chảy máu vào não. Trước khi xảy ra biến chứng nguy hiểm này thì người bệnh thường sẽ gặp phải những dấu hiệu như: buồn nôn, nôn nhiều lần buồn ngủ, nhìn đôi, đau đầu kéo dài, co giật, cơ thể yếu đột ngột.
Do vậy nếu như bạn gặp phải những biểu hiện bất thường ở trên thì tốt nhất nên đi thăm khám bác sĩ để được điều trị bệnh kịp thời.
3. Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông
Với người bình thường thì khi chảy máu sẽ diễn ra cơ chế những tế bào máu sẽ gộp lại với nhau thành cục máu đông giúp người bệnh cầm máu tốt hơn. Tuy nhiên với những người bị bệnh máu khó đông thì thường không diễn ra quá trình trên khiến máu không đông được.
- Đa số các trường hợp mắc bệnh máu khó đông nguyên nhân đều là do di truyền. Tuy nhiên thì bệnh khó đông máu thường hiếm gặp, đôi khi chúng xảy ra khi hệ thống miễn dịch của người bệnh bị tấn công do những yếu tố đông máu bao gồm:
+ Ung thư
+ Di truyền Hemophilia
+ Bệnh tự miễn
+ Đa xơ cứng (Multiple sclerosis)
Một số nghiên cứu cho thấy có khoảng 30% bệnh nhân mắc bệnh máu khó đông không có tiền sử gia đình. Họ bị bệnh khởi phát đột ngột do đột biến ở gen liên quan đến bệnh máu khó đông. Ngoài ra bệnh máu khó đông là bệnh có tính di truyền lặn bởi vậy mà tỷ lệ nam giới mắc phải bệnh máu khó đông thường cao hơn so với tỷ lệ nữ giới mắc bệnh.
Bệnh máu khó đông có nguy hiểm không?
Theo các bác sĩ chuyên khoa thì bệnh máu khó đông khá nguy hiểm với sức khỏe của người bệnh. Dưới đây là mức độ nguy hiểm ở người bệnh cần được theo dõi:
Với bệnh nhân bị máu khó đông do di truyền
Máu khó đông có yếu tố di truyền. Trước khi đi đến hôn nhân thì bạn nên chú ý tầm soát . Bởi nếu không thì với những trẻ sinh ra ở cặp vợ chồng này sẽ có nguy cơ cao mang gen bệnh hay gặp biểu hiện bệnh. Chúng có thể tiếp tục di truyền ở các thế hệ sau. Mỗi người bệnh khi đi thăm khám sẽ được cảnh báo trước về nguy cơ này.
Tỷ lệ người được chẩn đoán, điều trị không cao
Theo dược sĩ các Trường Cao Đẳng Phạm Ngọc Thạch cho biết, hiện nay tỷ lệ người mắc bệnh máu khó đông khá nhiều nhưng chỉ có một số ít người bệnh được chẩn đoán và điều trị. Các chuyên gia cho rằng bệnh máu khó đông nếu không được kiểm soát tốt thì khiến cho họ dễ gặp biến chứng khó lường như tàn tật, biến dạng khớp, … Tuy nhiên người bệnh nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì vẫn có thể được sinh hoạt như người bình thường.
Nhiều biến chứng nguy hiểm
Bệnh khó đông máu gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không điều trị kịp thời. Người mắc bệnh bị rối loạn đông máu thường rất dễ bị chảy máu tại nhiều bộ phận trên cơ thể bao gồm đường tiêu hóa (gây xuất huyết tiêu hóa), nướu răng, bàng quang (gây tiểu ra máu), trong cơ bắp,... Người bệnh dễ bị xuất hiện những vết bầm tím tại nơi dễ va chạm như khuỷu tay, cánh tay, cẳng chân, khớp gối, cổ chân và vai. Nhất là với trường hợp bệnh nhân bị chảy máu trong khớp. Bởi tình trạng này nếu không được điều trị sớm bằng cách bù yếu tố đông máu khi bị thiếu hụt thì tình trạng khớp của bệnh nhân sẽ bị ứ máu. Người bệnh sẽ gặp phải tình trạng sưng đỏ, nóng đau, sau đó dẫn tới viêm khớp thoái hóa bán cấp và mãn tính, nguy hiểm là gây biến dạng khớp.
Nguy hiểm nhất là những người mắc bệnh máu khó đông máu thì có thể bị chảy máu không kiểm soát, bị tàn tật hay thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng dù gặp phải một chấn thương nhỏ như đứt tay.
Bệnh máu khó đông có chữa khỏi không?
Hiện nay bệnh máu khó đông mặc dù chưa có phương pháp điều trị. Tuy nhiên nếu xác định được chính xác nguyên nhân thì hoàn toàn có thể kiểm soát được tốt nhờ vào phương pháp bổ sung yếu tố đông máu suốt đời. Theo đó để chẩn đoán bệnh kịp thời thì người bệnh nên đi thăm khám.
Tùy theo tình trạng ở mỗi người bệnh mà các bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị bệnh phù hợp. Người bệnh có thể được dùng thuốc, tiêm hoặc truyền tĩnh mạch theo định kỳ tại cơ sở bệnh viện. Bên cạnh đó các yếu tố đông máu có thể được lấy được từ máu của người khác.
Không chỉ vậy một số trường hợp người bệnh có thể được bác sĩ chỉ định dùng những sản phẩm hỗ trợ được gọi là các yếu tố đông máu tái tổ hợp, không được sản xuất từ máu người bao gồm:
+ Dùng keo dán sinh học: Loại kèo này được dán trực tiếp vào các vết thương nhằm thúc đẩy quá trình đông máu và chữa lành.
+ Thuốc chống tiêu sợi huyết: Loại thuốc này có tác dụng ngăn ngừa tình trạng cục máu đông bị phá vỡ.
+ Desmopressin (DDAVP): Loại hormone này có tác dụng kích thích cơ thể sản sinh ra các yếu tố đông máu, người bệnh có thể dùng dưới dạng xịt mũi hay tiêm từ từ vào tĩnh mạch.
+ Đối với trường hợp bị vết thương nhỏ chảy máu dưới da, người bệnh hãy dùng một túi nước đá lạnh chườm lên để giúp cầm máu.
+ Vật lý trị liệu: Với những bệnh nhân bị chảy máu khớp thì nên tập bài tập vật lý trị liệu, từ đó giúp làm giảm những triệu chứng và dấu hiệu chảy máu. Những người bệnh bị chảy máu trong thường gặp biến chứng nguy hiểm, do vậy cần được đưa đến bệnh viện sớm.
+ Tiêm chủng: Với những bệnh nhân bị chẩn đoán mắc bệnh máu khó đông, người bệnh sẽ được chỉ định tiêm phòng ngừa các vắc xin viêm gan A, B.